MƯU SINH HAY THI HÀNH SỨ VỤ?
Chú Giải Tin Mừng CN III PS năm C (Ga 21,1-19)
12. Lần thứ ba: Cụm từ “lần thứ ba” nối kết với “Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ bên biển hồ Tiberias” (21, 1) và cũng nối kết với hai lần khác trước đó Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất, Người hiện ra với mười môn đệ, không có ông Tôma; lần thứ hai với mười một môn đệ bao gồm cả ông Tôma (Ga 20,19-29). Tin Mừng thứ tư còn ghi lại cảnh Đức Giêsu hiện ra với bà Maria Magdalene. Tuy nhiên, lần này không được tính, vì người kể câu chuyện này đã giới hạn bằng cụm từ “cho các môn đệ”, chứ không phải cho người khác. Dù cho câu chuyện này thiếu sự nối kết với toàn bộ Tin Mừng thứ tư như đã nói ở trên, cách tính “lần thứ ba” được người thuật chuyện thêm vào như một dấu hiệu cho thấy ông ý thức sự tồn tại của hai lần trước đó[15]. “Lần thứ ba” cũng là một con số tròn đầy, để làm nên tần số hoàn hảo của các lần Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau Phục Sinh.
13. Yêu thầy … “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”: Cuộc đối thoại liên quan đến tình yêu và sứ vụ giữa Đức Giêsu và cá nhân ông Phêrô là một câu chuyện thú vị. Điều kiện để Đức Giêsu trao ban sứ vụ chăn dắt cho ông Phêrô là tình yêu vượt trội ông dành cho Người. Sự lý thú nằm ở chỗ Đức Giêsu đã hỏi đến ba lần chứ không phải một lần. Ứng với ba lần hỏi của Đức Giêsu là ba lần trả lời của ông Phêrô và ba lần trao ban sứ vụ của Đức Giêsu. Con số ba không khỏi làm cho người ta liên tưởng đến ba lần ông Phêrô đã chối là không biết gì về Đức Giêsu trong trình thuật về cuộc thương khó (Ga 18,17.25.26). Nếu như con số này liên quan đến ba lần ông Phêrô chối Chúa thì Đức Giêsu có ý gì khi cố tình hỏi ba lần như thế? Người Phương Đông có câu “ngã ở đâu thì đứng dậy ở đó”. Đức Giêsu dường như muốn ông Phêrô ý thức rõ lỗi lầm của mình và chính mình vượt qua mặc cảm của lỗi lầm trong quá khứ để tiếp tục lãnh nhận sứ vụ. Đối lại với ba lần chối bỏ là ba lời cam kết yêu thương: “Thầy biết con yêu mến thầy”. Đức Giêsu cũng muốn ông Phêrô xác tín lại là sau bao nhiêu lỗi lầm thiếu sót, ông còn đủ tự tin để nói yêu Thầy như trước không. Người muốn ông hiểu rõ tình yêu mà ông dành cho Người không phải là tình yêu thí mạng: “Con sẽ thí mạng con vì Thầy” như ông đã từng khẳng định (Ga 13,37-38), nhưng là tình yêu trải qua bao nhiêu yếu đuối, lỗi lầm mà vẫn tiếp tục yêu. Sự cảm nghiệm của ông Phêrô về thân phận tội lỗi của mình ngay giây phút đầu tiên ông gặp gỡ Chúa: “Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là người tội lỗi” (Lc 5, 8), quả thật chẳng ăn thua gì với tội “chối Thầy” ba lần mà ông đã trải nghiệm. Việc Đức Giêsu tiếp tục tín nhiệm và trao ban sứ vụ cho ông ba lần cho thấy Người hiểu rõ toàn bộ con người của ông và Người đón nhận tất cả, miễn là ông vẫn còn yêu Người.
Cách dùng từ của tác giả bản văn cũng rất lý thú, đặc biệt là động từ “yêu”; Động từ “chăm sóc”; và danh từ “con chiên”. Mặc dù tác giả nổi tiếng R. Brown ghi chú rằng hầu như các tác giả hiện đại cho rằng những khác biệt trong cách dùng từ này không mang lại ý nghĩa gì[16], chúng tôi vẫn thấy có nhiều điều lý thú cần diễn giải.
Động từ “yêu”
Trong ba lần hỏi Đức Giêsu dùng hai động từ “yêu” khác nhau: Hai lần đầu Người dùng động từ “agapaồ”. Lần thứ ba, Người dùng động từ “philêồ”. Ứng với ba câu hỏi của Đức Giêsu, ông Phêrô chỉ dùng một động từ “philêồ”. Điều này khiến cho nhiều tác giả diễn giải rằng. Hai lần đầu Đức Giêsu hỏi bằng động từ diễn tả mức độ tình yêu cao nhất (agapaồ), nhưng vì ông Phêrô chỉ trả lời bằng động từ diễn tả mức độ tình yêu thấp hơn “philêồ”, nên lần thứ ba Đức Giêsu cố tình hạ xuống cho vừa với mức độ đáp trả của ông Phêrô[17]. Đức Giêsu hỏi tình yêu của ông Phêrô có vượt trội “hơn những người này không” vì trước đó ông đã từng khẳng định sự trổi vượt của mình: “Dù tất cả có vấp ngã, con sẽ không vấp ngã” (Mc 14, 29; Mt 26, 33); “Sao con lại không thể theo Thầy, con sẽ thí mạng con vì Thầy” (Ga 13, 37).
| Hai động từ “yêu” |
| ἀγαπᾷς με πλέον τούτων; … φιλῶ σε ἀγαπᾷς με; … φιλῶ σε φιλεῖς με; … φιλῶ σε |
Động từ “chăm sóc”:
Trong phần trao ban sứ vụ, Đức Giêsu cũng dùng hai động từ đều có ý nghĩa “chăm sóc, dẫn dắt”. Động từ “boskô” (βόσκω) được dùng hai lần, nghiêng về ý nghĩa cho ăn, cho uống nhiều hơn (x. Lc 15, 15), trong khi động từ “poimano” (ποιμαίνω) nghiêng về ý nghĩa dẫn dắt nhiều hơn. Động từ “ποιμαίνω” có cùng gốc với danh từ “poimên” (ποιμήν: mục tử). Đức Giêsu tự mô tả mình là một “mục tử nhân lành” (ὁ ποιμὴν ὁ καλός) (Ga 10, 11). Mục tử không chỉ cho đàn chiên ăn, uống nhưng phải “biết chiên và chiên biết” (Ga 10, 14); “hy sinh mạng sống vì đàn chiên” (Ga 10,11.17.18); “tìm kiếm chiên lạc” (Ga 10, 16). Sự kết hợp giữa hai động từ này cho thấy sự bao hàm tất cả các hành vi trong sứ vụ của một mục tử[18].
| Hai động từ “chăm sóc” |
| βόσκε (cho ăn) ποίμαινε (dẫn dắt) βόσκε (cho ăn) |
Danh từ “con chiên”
Tương tự, có hai danh từ được sử dụng để diễn tả con chiên. Hai từ này đều diễn tả con chiên, nhưng khác về sự trưởng thành. “τὰ ἀρνία” thường được dịch là “những con cừu” (Tiếng Anh: lambs; Tiếng Pháp: Agneaux; Tiếng Ý: Agnelli). Con cừu là con chiên nhỏ một tuổi, hoặc dưới một tuổi. Con chiên non thường bám lấy chiên mẹ. “τὰ πρόβατά” thường được dịch là “những con chiên” (Tiếng Anh: Sheep; Tiếng Pháp: Bresis; Tiếng Ý: Pecore). Con chiên là một con cừu trưởng thành, nếu là con đực thì có sừng. Con chiên của “mục tử nhân lành”, Giêsu là “τὰ πρόβατά”. Hai con này có thể so sánh với con bê và con bò trong tiếng Việt. Việc Đức Giêsu dùng kết hợp hai danh từ này có thể hiểu cách đơn giản như là một sự linh động, phong phú trong cách sử dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, cách dùng này cũng có thể ngụ ý sự bao quát tất cả các loại chiên, đủ mọi lứa tuổi mà mục tử được trao gửi để chăm sóc, tương tự như cách sử dụng hai động từ “chăm sóc” khác nhau như đã nói trên.
| Hai danh từ “con chiên” |
| τὰ ἀρνία μου; … Những con cừu của Ta τὰ πρόβατά μου … Những con chiên của Ta τὰ πρόβατά μου … Những con chiên của Ta. |
14. Tự mình thắt lưng … dang tay ra cho người khác thắt lưng… cách thức ông sẽ chết để tôn vinh Thiên Chúa:
| Lúc còn trẻ … tự thắt lưng … đi đến nơi con muốn
Lúc về già … dang tay ra … người khác thắt lưng … dẫn đến nơi không muốn
|
Sau khi trao ban sứ vụ, Đức Giêsu dùng hai hình ảnh trái ngược trong hai giai đoạn cuộc đời của mục tử Phêrô. Lúc còn trẻ, ông tự mình thắt lưng và đi đến nơi ông muốn. Nghĩa là, ông chủ động trong sứ vụ của mình; nhưng khi về già, ông phải dang tay ra, để người khác thắt lưng và dẫn ông đến nơi mà ông không muốn. Theo tác giả Bultmann, đây có thể là câu tục ngữ nói về tình trạng bình thường của một con người: “Lúc trẻ một người tự do di đến nơi anh ta muốn; Khi già, người ta phải để cho mình bị đưa đến nơi mà anh ta không muốn”[19]. Người thuật chuyện giải thích câu nói của Đức Giêsu nhằm ám chỉ cách ông phải chết để tôn vinh Thiên Chúa. “Dang tay” có nghĩa là dang tay trên thập giá như Thầy Giêsu[20]. Theo truyền thống, ông Phêrô đã chết theo hình thức đóng đinh ngược trên đồi Vatican, ngày nay là quảng trường Thánh Phêrô.
15. “Hãy theo Thầy”: Mệnh lệnh này được lặp lại hai lần trong đoạn Ga 21,15-23 và đều dành riêng cho ông Phêrô. Mệnh lệnh “hãy theo Thầy” gợi nhớ lại lời mời gọi đầu tiên Đức Giêsu dành cho ông Phêrô và các môn đệ khác: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những người lưới người ta” (Mc 1, 17; 2, 14; Mt 4, 19; Lc 5, 27; Ga 1, 43). Theo Đức Giêsu đồng nghĩa với việc “từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình hằng ngày mà theo”: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác lấy thập giá mình mà theo” (Mc 8, 34; Mt 16, 24; Lc 9, 23); “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 38). “Theo Thầy” thì phải từ bỏ tất cả mọi sự ngay cả mạng sống của mình (Mc 8, 35; 10, 28; Lc 18, 28; Mt 16, 25; Ga 12,24.25.26). Lời mời gọi của Đức Giêsu ở đây như là một sự tái khởi động lại ơn gọi “đi theo” của ông Phêrô, điều mà dường như đã bị gián đoạn sau khủng hoảng của cuộc thương khó đầy thử thách, gian nan. Giờ đây, đức tin của ông đã chín chắn và trưởng thành hơn, hứa hẹn một hành trình “đi theo” Chúa đến cùng.
Bình luận tổng quát
Trình thuật Ga 21,1-19 vừa có điểm tương tự như trình thuật Lc 5,1-11 về mẻ cá lạ lùng và ơn gọi của ông Phêrô; vừa giống với câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24,13-35) về tiến trình từ không nhận biết đến nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ hai lần trong phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem: Lần thứ nhất với mười môn đệ, vắng ông Tôma (Ga 20,19-23); lần thứ hai với 10 môn đệ, cùng với ông Tôma (20,24-29). Nếu như không nhìn nhận câu chuyện này là một câu chuyện thêm vào sau, thì việc các môn đệ trở về Tiberias, Galilaia để bắt đầu lại cuộc sống mới có vẻ kỳ lạ, và việc họ không nhận ra Chúa cũng khá bất thường. Quả vậy, ông Phêrô đã dẫn đầu nhóm bảy môn đệ quay lại công việc mưu sinh thường ngày. Ông tỏ ý đi đánh cá và tất cả đều đi với ông. Họ cùng lên thuyền, ra khơi đánh cá với nhau. Tuy nhiên, họ đã không bắt được gì trong suốt đêm ấy. Họ làm việc cùng nhau, với sự dẫn đầu của ông Phêrô, nhưng họ vẫn thất bại vì họ vẫn còn ở trong đêm tối của đức tin và thiếu vắng Đức Giêsu, “ánh sáng của thế gian”. Chính vì thế, khi bình minh ló rạng, với sự xuất hiện của Đức Giêsu mang lại cho họ một hy vọng mới. Đức Giêsu đã mang lại sự khác biệt lạ lùng. Thời gian ban ngày không thuận tiện cho việc đánh cá. Hơn nữa, thuyền không xa bờ, làm sao có cá to mà đánh. Vậy mà, khi làm theo sự chỉ dẫn đơn giản của Đức Giêsu, họ đã không thể kéo lưới lên nổi vì đầy cá. Những người môn đệ có thâm niên trong nghề đánh cá, bỗng ngoan ngoãn làm theo lời của người lạ mặt như những đứa bé làm theo lời của người Thầy của mình. Đức Giêsu đã gọi họ là “những cậu bé” vì sự non nớt, yếu đuối về niềm tin của họ. Vả lại, đối với Đức Giêsu Phục Sinh, họ vẫn mãi là những đứa trẻ cần được dạy dỗ và dìu dắt về đức tin. Như thường lệ, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã nhận ra Chúa trước, và giới thiệu cùng ông Phêrô, nhưng ông Phêrô, như thường lệ, lại là người hành động trước. Ông đã khoác áo vào và nhảy xuống biển để bơi vào bờ cách nhanh nhất có thể vì lưới đầy cá thì khó má kéo vào nhanh được. Lúc khởi đầu các môn đệ đã được mời gọi để trở thành những người “đánh bắt” người ta. Tuy nhiên, giờ đây, sau biến cố thương khó, họ lại quay trở lại đánh cá như cũ. Đức Giêsu xuất hiện là để đưa họ trở lại với sứ vụ “lưới người ta”. Số con cá lớn 153 con như nhắc nhở các môn đệ về một biển người rộng lớn mà họ phải đánh bắt. Sau đó, cả Thầy và trò không ai nói đến dấu lạ nữa. Họ nói về sự nhận biết Đức Giêsu. Đức Giêsu lấy bánh và cá trao cho họ, như một gợi nhớ đến phép lạ hóa bánh ra nhiều và tiệc Thánh Thể. Bánh và cá là nhu cầu cơ bản để nuôi sống bản thân, nhưng chúng không phải là lẽ sống và lối sống của cả đời họ. Lẽ sống của cả đời họ chính là rao giảng Tin Mừng và lối sống của họ chính là yêu Chúa và yêu người. Câu chuyện bữa ăn bên bếp lửa hồng được tiếp nối bằng cuộc đối thoại về tình yêu và sứ vụ giữa Đức Giêsu và ông Phêrô. Mục đích chính yếu của lần hiên ra này là: Đưa các môn đệ trở lại với nhiệm vụ “lưới người” chứ không phải là lưới cá. Đức Giêsu đã khơi dậy tình yêu mãnh liệt trong sâu thẳm trái tim của Tông Đồ Phêrô. Tình yêu ấy mạnh đến mức mà đã có lúc ông nghĩ rằng mình có thể “thí mạng vì Thầy” (Ga 13,37). Rủi thay, tình yêu ấy cũng đã có lúc tắt ngúm vì thất vọng, vì lỗi lầm. Sau bao nhiêu thăng trầm và lỗi lầm của ông Phêrô, Đức Giêsu muốn ông tuyên xưng lại tình yêu ấy. Chỉ khi nào có tình yêu, thì ông Phêrô mới có thể đón nhận sứ vụ chăm sóc, dẫn dắt đàn chiên mà Chúa trao phó, bởi lẽ một mục tử tốt lành phải dám hy sinh tính mạng vì đàn chiên của mình. Sau khi trao ban sứ vụ mục tử, Đức Giêsu cũng đồng thời tiền báo cách chết của mục tử Phêrô để tôn vinh Thiên Chúa. Mệnh lệnh “hãy theo Thầy” trong bối cảnh này không chỉ là ở với Thầy để Thầy sai đi rao giảng nữa, nhưng là đi theo toàn bộ hành trình mà Thầy đã đi qua: Rao giảng, chữa lành, chịu khổ nạn và chết. Lời dạy ngày xưa liên quan đến tiêu chuẩn của một người môn đệ cần được thực hiện cách triệt để: “Ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá của mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 26); “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35; Lc 9, 24; Mt 16, 25). Hy sinh tính mạng cho người khác là tình yêu ở cảnh giới cao nhất: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng của mình vì người thương của mình” (Ga 15, 13: τῶν φίλων αὐτοῦ).
Trong dòng đời ngược xuôi nhiều khi vì quá bận tâm đến chuyện mưu sinh, sợ hãi cảnh đói nghèo, bệnh tật, người kitô hữu quên đi sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, và quên đi sứ vụ cao cả là mang tin vui cho người khác. Muốn mang tin vui cho người khác, họ phải biết yêu thương người khác bằng những hành động cụ thể. Muốn yêu thương người khác thì trước hết họ phải yêu Chúa mạnh mẽ như ông Phêrô. Tình yêu họ dành cho người khác đòi hỏi những sự hy sinh cao cả, đôi khi là hy sinh cả bản thân mình. Mỗi người kitô hữu là một mục tử được Đức Giêsu mời gọi chăm sóc một ai đó (con chiên của Đức Giêsu). Những “con chiên đó” trước hết là những người thân yêu, ruột thịt bên cạnh mình. Đối tượng mà những người kitô hữu phải chăm sóc còn được trải rộng ra cho tất cả những bạn bè, đồng nghiệp, đồng đạo, rồi đến tất cả mọi người, nhất là những người đau khổ, mà họ gặp gỡ mỗi ngày trong dòng đời xuôi ngược.
---Hết---
Lm. Joseph Phạm Duy Thạch, SVD
Nguồn: https://josephpham-horizon.blogspot.com/2022/04/muu-sinh-hay-thi-hanh-su-vu-chu-giai.html (cập nhật ngày 12/07/2025)
-----------------------------------------------------
[15] “It is the redactor’s attempt to sew chs. 20 and 21 together by making this appearance sequential to the two in 20:19 and 26” (R.E. Brown, The Gospel according to John XIII-XXI, 1077).
[16] “We note that most modern scholars (Lagrange, Bernard, Moffatt, Strachan, Bonsirven, Bultmann, Barrett, etc) have reverted to the older idea that the variations are a meaningless stylistic peculiarity” (R.E. Brown, The Gospel according to John XIII-XXI, 1102).
[17] “Westcott, however, although he also distinguishes the two verbs, interprets the scene in another way. In his view, Peter answers in terms of philein because he does not venture to claim that he has attained to the higher love of agapan. Evans, art. cit., thinks that the verb agapan implies a certain superiority, for it connotes the satisfaction of a superior with an inferior. In his view, Peter’s refusal to use agapan is an expression of humility” [R.E. Brown, The Gospel according to John (I–XII). Introduction, translation, and notes (AnB; New Haven - London 2008) XXIX, 498].
[18] “Combined, the two verbs express the fullness of the pastoral task assigned to Peter” (R.E. Brown, The Gospel according to John XIII-XXI, 1105).
[19] E. Haenchen– R.W. Funk– U. Busse, John. A commentary on the Gospel of John, 226.
[20] “Many interpreters have proposed that, even more specifically, the Johannine comparison in 18 refers to death by crucifixion. The key clause for this interpretation is “You will stretch out your hands” (R.E. Brown, The Gospel according to John XIII-XXI, 1107).