Ngày tháng: 31/10/2025
Đang truy cập: 20

Chúa Nhật III Phục Sinh - Năm C (1/2)

MƯU SINH HAY THI HÀNH SỨ VỤ?

Chú Giải Tin Mừng CN III PS năm C (Ga 21,1-19)

Bản văn và dịch sát nghĩa

Hy Lạp

Việt

1 Μετὰ ταῦτα ἐφανέρωσεν ἑαυτὸν πάλιν ὁ Ἰησοῦς τοῖς μαθηταῖς ἐπὶ τῆς θαλάσσης τῆς Τιβεριάδος· ἐφανέρωσεν δὲ οὕτως.

 

 2 Ἦσαν ὁμοῦ Σίμων Πέτρος καὶ Θωμᾶς ὁ λεγόμενος Δίδυμος καὶ Ναθαναὴλ ὁ ἀπὸ Κανὰ τῆς Γαλιλαίας καὶ οἱ τοῦ Ζεβεδαίου καὶ ἄλλοι ἐκ τῶν μαθητῶν αὐτοῦ δύο.

 

 3 λέγει αὐτοῖς Σίμων Πέτρος· ὑπάγω ἁλιεύειν. λέγουσιν αὐτῷ· ἐρχόμεθα καὶ ἡμεῖς σὺν σοί. ἐξῆλθον καὶ ἐνέβησαν εἰς τὸ πλοῖον, καὶ ἐν ἐκείνῃ τῇ νυκτὶ ἐπίασαν οὐδέν.

 

 4 Πρωΐας δὲ ἤδη γενομένης ἔστη Ἰησοῦς εἰς τὸν αἰγιαλόν, οὐ μέντοι ᾔδεισαν οἱ μαθηταὶ ὅτι Ἰησοῦς ἐστιν.

 

 5 λέγει οὖν αὐτοῖς [ὁ] Ἰησοῦς· παιδία, μή τι προσφάγιον ἔχετε; ἀπεκρίθησαν αὐτῷ· οὔ.

 

 6 ὁ δὲ εἶπεν αὐτοῖς· βάλετε εἰς τὰ δεξιὰ μέρη τοῦ πλοίου τὸ δίκτυον, καὶ εὑρήσετε. ἔβαλον οὖν, καὶ οὐκέτι αὐτὸ ἑλκύσαι ἴσχυον ἀπὸ τοῦ πλήθους τῶν ἰχθύων.

 

 7 λέγει οὖν ὁ μαθητὴς ἐκεῖνος ὃν ἠγάπα ὁ Ἰησοῦς τῷ Πέτρῳ· ὁ κύριός ἐστιν. Σίμων οὖν Πέτρος ἀκούσας ὅτι ὁ κύριός ἐστιν τὸν ἐπενδύτην διεζώσατο, ἦν γὰρ γυμνός, καὶ ἔβαλεν ἑαυτὸν εἰς τὴν θάλασσαν,

 

 8 οἱ δὲ ἄλλοι μαθηταὶ τῷ πλοιαρίῳ ἦλθον, οὐ γὰρ ἦσαν μακρὰν ἀπὸ τῆς γῆς ἀλλ᾽ ὡς ἀπὸ πηχῶν διακοσίων, σύροντες τὸ δίκτυον τῶν ἰχθύων.

 

 9 Ὡς οὖν ἀπέβησαν εἰς τὴν γῆν βλέπουσιν ἀνθρακιὰν κειμένην καὶ ὀψάριον ἐπικείμενον καὶ ἄρτον.

 

 10 λέγει αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· ἐνέγκατε ἀπὸ τῶν ὀψαρίων ὧν ἐπιάσατε νῦν.

 

 11 ἀνέβη οὖν Σίμων Πέτρος καὶ εἵλκυσεν τὸ δίκτυον εἰς τὴν γῆν μεστὸν ἰχθύων μεγάλων ἑκατὸν πεντήκοντα τριῶν· καὶ τοσούτων ὄντων οὐκ ἐσχίσθη τὸ δίκτυον.

 

 12 Λέγει αὐτοῖς ὁ Ἰησοῦς· δεῦτε ἀριστήσατε. οὐδεὶς δὲ ἐτόλμα τῶν μαθητῶν ἐξετάσαι αὐτόν· σὺ τίς εἶ; εἰδότες ὅτι ὁ κύριός ἐστιν.

 

 13 ἔρχεται Ἰησοῦς καὶ λαμβάνει τὸν ἄρτον καὶ δίδωσιν αὐτοῖς, καὶ τὸ ὀψάριον ὁμοίως.

 

 14 τοῦτο ἤδη τρίτον ἐφανερώθη Ἰησοῦς τοῖς μαθηταῖς ἐγερθεὶς ἐκ νεκρῶν.

 

 15 Ὅτε οὖν ἠρίστησαν λέγει τῷ Σίμωνι Πέτρῳ ὁ Ἰησοῦς· Σίμων Ἰωάννου, ἀγαπᾷς με πλέον τούτων; λέγει αὐτῷ· ναὶ κύριε, σὺ οἶδας ὅτι φιλῶ σε. λέγει αὐτῷ· βόσκε τὰ ἀρνία μου.

 

 16 λέγει αὐτῷ πάλιν δεύτερον· Σίμων Ἰωάννου, ἀγαπᾷς με; λέγει αὐτῷ· ναὶ κύριε, σὺ οἶδας ὅτι φιλῶ σε. λέγει αὐτῷ· ποίμαινε τὰ πρόβατά μου.

 

 17 λέγει αὐτῷ τὸ τρίτον· Σίμων Ἰωάννου, φιλεῖς με; ἐλυπήθη ὁ Πέτρος ὅτι εἶπεν αὐτῷ τὸ τρίτον· φιλεῖς με; καὶ λέγει αὐτῷ· κύριε, πάντα σὺ οἶδας, σὺ γινώσκεις ὅτι φιλῶ σε. λέγει αὐτῷ [ὁ Ἰησοῦς]· βόσκε τὰ πρόβατά μου.

 

 18 Ἀμὴν ἀμὴν λέγω σοι, ὅτε ἦς νεώτερος, ἐζώννυες σεαυτὸν καὶ περιεπάτεις ὅπου ἤθελες· ὅταν δὲ γηράσῃς, ἐκτενεῖς τὰς χεῖράς σου, καὶ ἄλλος σε ζώσει καὶ οἴσει ὅπου οὐ θέλεις.

 

 19 τοῦτο δὲ εἶπεν σημαίνων ποίῳ θανάτῳ δοξάσει τὸν θεόν. καὶ τοῦτο εἰπὼν λέγει αὐτῷ· ἀκολούθει μοι.

1 Sau những điều này, Đức Giêsu lại tỏ mình cho các môn đệ bên cạnh biển Tiberias. Người đã tỏ mình như thế này:

 

2 Khi ấy, ông Simon Phêrô và ông Tôma, người được gọi là Diđymos và Nathanael, đến từ Cana miền Galilaia, những người con ông Dêbêđê, cùng hai môn đệ khác của Người, đang ở với nhau.

 

3 Ông Simon Phêrô nói cùng họ: “Tôi ra đi để đánh cá đây”. Họ nói cùng ông: “Chúng tôi cũng đi và chúng tôi cùng với ông”. Họ ra đi và lên chiếc thuyền, và trong đêm ấy, họ không bắt được gì.

 

4 Khi bình minh đến, Đức Giêsu đứng trên bờ biển. Tuy nhiên, các môn đệ không biết đó là Đức Giêsu.

 

5 Đức Giêsu mới nói cùng họ: “Này các cậu bé, các con không có cá hả?” Họ trả lời cùng Người: “Thưa không có”

 

6 Người nói cùng họ: “Quăng lưới bên phải mạn thuyền, các con sẽ tìm thấy”. Họ quăng như thế và không còn có thể kéo nổi vì vô số cá.

 

7 Rồi người môn đệ ấy, người Đức Giêsu yêu, mới nói cùng ông Phêrô, “Đó là Chúa”. Sau khi nghe đó là Chúa, ông Simon liền mặc áo choàng vào bởi vì ông đang ở trần và nhảy xuống biển.

 

8 Những môn đệ khác cũng đi vào bằng thuyền, vì họ không xa đất liền lắm, chừng 106 mét (200 cubit)

 

9 Khi họ ra khỏi thuyền lên bờ họ đã thấy than hồng được đặt sẵn, cùng với cá và bánh được đặt trên đó.

 

10 Đức Giêsu nói cùng họ: “Hãy mang từ những con cá mới bắt được đến đây”

 

11 Ông Phêrô đi lên và kéo lưới lên bờ đầy những cá lớn, 153 con, nhưng lưới không bị rách vì nhiều cá như thế.

 

12 Đức Giêsu nói cùng họ, đến ăn sáng đi. Không ai trong số các môn đệ dám hỏi Người: “Ông là ai?” Vì họ biết đó là Chúa

 

13 Đức Giêsu đến và lấy bánh trao cho họ, và cá cũng vậy.

 

14 Đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

 

15 Khi họ đã ăn sáng rồi, Đức Giêsu nói cùng ông Simon Phêrô: “Này Simon con ông Gioan, con có yêu Thầy hơn những người này không?” Ông nói cùng Người: “Thưa Ngài có, Ngài biết con yêu mến Ngài”. Người nói cùng ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

 

16 Người lại nói cùng ông lần thứ hai: “Con có yêu Thầy không?” Ông nói cùng Người: “Có, thưa Ngài, Ngài biết rằng con yêu mến Ngài”. Người nói cùng ông: “Hãy dẫn dắt chiên của Thầy

 

17 Người lại nói cùng ông lần thứ ba: “Này Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người nói lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Và ông nói cùng Người: “Thưa Ngài, Ngài biết rõ mọi sự, Ngài biết rằng con yêu mến Ngài”. Người nói cùng ông: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

 

18 Amen, Amen, Thầy bảo con, khi con còn trẻ, con tự mình thắt lưng và đi đến nơi con muốn nhưng khi con già rồi, con phải giang tay ra, người khác thắt lưng và dẫn đến nơi con không muốn.

 

19 Người nói điều này nhằm cho biết trước cách thức ông sẽ chết để tôn vinh Thiên Chúa, và sau khi đã nói điều ấy, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy”.

 

 

Bối cảnh

Ga 21,1-19 được trích ra từ đoạn cuối của Tin Mừng thứ tư (Ga 21,1-25). Toàn thể đoạn văn này thường được xem là đoạn văn thêm vào, không có trong bản văn nguyên thủy của Tin Mừng Gioan. Tác giả F.J. Moloney liệt kê ít nhất bảy dẫn chứng của bảy tác giả khác nhau cho thấy chương 21 không thuộc về Tin Mừng thứ tư ngay từ đầu. Hay nói đúng hơn, Ga 20,31 là phần kết nguyên thủy của Tin Mừng này[1]. (i) Đoạn kết 20,30-31 nghe như là một kết thúc long trọng của một câu chuyện (“còn những điều đã được ghi chép nơi đây là để anh chị em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người”); (ii) Nhiều từ vựng và dấu hiệu văn chương chỉ xuất hiện trong 21,1-25 mà thôi; (iii) Câu chuyện của Gioan 21 cho thấy mối quan tâm đến cộng đoàn, sứ vụ, và quyền trong cộng đoàn. Những điều này vượt ra ngoài quan tâm của Ga 1, 1 – 20, 31); (iv) Sự nối tiếp của câu chuyện gây bối rối cho độc giả. Sau sứ vụ của bà Maria Magdalene và sứ vụ của các môn đệ 20,19-23, tại sao các môn đệ lại trở về Galilaia để bắt đầu làm lại công việc cũ? (v) Sự chậm hiểu của các môn đệ. Sau hai lần thấy Chúa trong phòng kín (20,19-23.26-29), tại sao họ lại không nhận ra Người khi Người hiện ra lần thứ ba (21, 14)? (vi) Đây liệu có phải là lần thứ ba? Nếu tính cả lần hiện ra với bà Maria Magdalene, đây là lần thứ tư; (vii) Những từ ngữ cuối cùng làm nên một kết luận mang tính văn chương, tương tự những kết luận từ văn chương cổ thời. Những từ ngữ này lặp lại, trong mẫu thức ít thần học và hướng về độc giả hơn kết luận của 20, 30. Tuy liệt kê những chứng cứ cho thấy rằng đoạn văn (21,1-19) không thuộc về nguyên bản của Tin Mừng thứ tư, tác giả F. Moloney vẫn nhìn nhận sự quan trọng và cần thiết của bản văn này vì nó đã được những Kitô hữu, những người đã sưu tập và chuyển giao cho các thế hệ sau đó. Cũng có một vài tác giả đã xem nó như là đoạn kết nguyên thủy của sách Tin Mừng này (Lagrange; Hoskyns; Robinson; Smalley; Minear; Carson; Morris)[2]. Câu chuyện này dường như muốn nhấn mạnh số lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Câu chuyện lấy lại vai trò “chăn dắt” của ông Phêrô, vai trò mà dường như không được chú trọng trong suốt Tin Mừng thứ tư. Phép lạ “mẻ cá lạ lùng” trong câu chuyện này rất giống với phép lạ tương tự được tác giả Luca nói đến khi tường thuật về ơn gọi của ông Phêrô (Lc 5,1-11).

Cấu trúc

Đoạn văn Ga 21, 1-19 có thể được chia làm hai phần: Phần A. Đức Giêsu phục sinh gặp gỡ nhóm các môn đệ; Phần B. Đức Giêsu trao ban sứ vụ cho ông Phêrô.

A. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (1-14)

            A.1. Bối cảnh (1-2)

            A.2. Lưới cá thất bại với nhau (3)

            A.3. Lưới cá thành công với Đức Giêsu (4-6)

           A.4. Nhận ra và gặp gỡ Đức Giêsu (7-14)

B. Đức Giêsu trao sứ vụ cho ông Phêrô (15-19).

           B1. Tình yêu và sứ vụ (15-17)

           B2. Cách thức chết vì sứ vụ (18-19)

Một số điểm chú giải

1.     Biển hồ Tiberias: Miền Bắc của vùng đất Israel – Palestin có một hồ nước ngọt dài khoảng 21 km, rộng khoảng 12 km, thấp hơn mực nước biển khoảng 212 m[3]. Hồ này cùng với sông Giorđan là nguồn cung cấp nước ngọt chính yếu cho toàn lãnh thổ Israel – Palestin. Hồ này thường được các tác giả các sách Tin Mừng nhắc đến với ba tên gọi khác nhau: Hồ Galilaia; Hồ Tiberias và hồ Ghennêxarét. Gọi là hồ Galilaia vì nó nằm trong miền Galilaia. Hai tên gọi Tiberias và Ghennnêxarét xuất phát từ hai thành phố nằm cạnh hồ này. Thành phố Ghennêxarét nằm ở phía Tây Bắc của hồ. Hồ Ghennêxarét được tác giả Luca nói đến: “Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghennêxarét” (Lc 5, 1). Thành phố Tiberias nằm ở phía Tây của hồ. Tiberias được thành lập vào khoảng năm 20 CE và được gọi theo tên của hoàng đế thứ hai của đế quốc Rôma, Tiberius. Tiberias là tên gọi đặc trưng của tác giả Tin Mừng thứ tư. Ông là tác giả duy nhất dùng danh xưng này và lặp lại đến ba lần (Ga 6,1.23; 21, 1), trong đó có một lần ông giải thích rằng “biển hồ Galilaia, cũng gọi là biển hồ Tiberias” (Ga 6, 1). Các tác giả Mátthêu và Máccô thường gọi là biển hồ Galilaia (Mt 4,13.18; 15, 29; Mc 1, 16; 7, 31).

 

 

2.     Nhóm các môn đệ: Ông Simon Phêrô; Tôma; Nathanael; những người con ông Dêbêđê, cùng các môn đệ khác của Người. Tin Mừng thứ tư có ghi lại việc tuyển chọn bốn môn đệ đầu tiên. Tuy nhiên, danh xưng của bốn môn đệ đầu tiên này khác với bốn môn đệ đầu tiên của truyền thống Nhất Lãm. Theo tác giả Tin Mừng thứ tư, ông Anrê đã “đến và xem” nơi Đức Giêsu ở. Sau đó, ông dẫn em mình đến với Đức Giêsu (x. Ga 1,35-42). Tiếp theo sau đó, Đức Giêsu gọi ông Phílípphê. Ông Philípphê lại giới thiệu Đức Giêsu cho ông Nathanael và Đức Giêsu đã thuyết phục ông Nathanael theo Người (x. Ga 1,43-51). Tin Mừng thứ tư có bốn lần nhắc đến danh xưng “Nhóm Mười Hai” (Ga 6,67.70.71; 20, 24). Tuy nhiên, trong Tin Mừng thứ tư, người ta lại không thấy danh sách tên của tất cả những thành viên “Nhóm Mười Hai” một cách trọn vẹn. Lần dài nhất và chi tiết nhất mà tác giả liệt kê tên của các Tông Đồ là trong đoạn văn này (Ga 21,1-3). Danh sách này chỉ gồm có bảy người. Ngay cả trong danh sách này, chỉ có ba người được gọi tên: Ông Simon Phêrô; ông Nathanael, người Cana; ông Tôma, được gọi là Đidymos. Bốn người còn lại là “hai người con của ông Dêbêđê” (rất có thể là Gioan và Giacôbê) và “hai môn đệ khác” (vô danh)[4]. Tên gọi Nathanael không có trong danh sách Mười Hai Tông Đồ của Tin Mừng Nhất Lãm. Vì thế, hầu hết các tác giả tin rằng Nathanael chính là Batôlômêô của Tin Mừng Nhất Lãm. Chỉ có trong Tin Mừng Gioan, người ta mới biết rằng ông Tôma thường được gọi là Điđymos (nghĩa là sinh đôi: Ga 11, 16; 20,24; 21,2). Một trong những cách giải thích về chữ “sinh đôi” là tên của ông trong tiếng Do Thái “ta’am”, nghĩa là “cặp đôi, sinh đôi”. Tương tự, Gioan là tác giả duy nhất cho biết ông Nathanael quê ở Cana (Ga 21, 2) và ông Philípphê, quê ở Bếtsaiđa, cùng quê với ông Anrê và ông Phêrô (Ga 2, 44). Con số bảy của nhóm các môn đệ đang ở với nhau, có lẽ cũng diễn tả một ý nghĩa hoàn hảo cách nào đó, trước khi họ thất bại trong vụ lưới cá.

3.     “Tôi ra đi để đánh cá đây” … “Chúng tôi cũng đi và chúng tôi cùng với ông”: Ông Phêrô xuất hiện như là một người đứng đầu, dẫn đầu trong hành trình trở lại cuộc sống đời thường[5]. Trước đó, ông cũng đã đi vào bên trong “ngôi mộ trống” trước, mặc dù ông chạy đến sau “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 20, 6). Dường như, với sự dẫn đầu của ông Phêrô, nhóm môn đệ đang trở lại với cuộc sống mưu sinh thường ngày. Đánh cá là nghề của cả bốn môn đệ Phêrô, Anrê, hai người con ông Dêbêđê (Mc 1,16-20). Như đã nói trên, có một điều khá lạ lùng là tại sao sau khi Đức Giêsu đã hiện ra với các ông hai lần và đã trao ban Thánh Linh, cùng với sự vụ rao giảng Tin Mừng (Ga 20,19-29), các ông lại quay về Galilaia và khởi động lại công việc mưu sinh. Điều này cho thấy sự thiếu logic trong đoạn cuối của Tin Mừng thứ tư và vì thế đa số các tác giả tin rằng câu chuyện này đã được thêm vào sau. Điều có thể nói ở đây là ông Phêrô khởi đầu và tất cả các môn đệ khác cùng đồng hành với ông.

4.     Ra đi … lên chiếc thuyền … trong đêm ấy … không bắt được gì: Đây là một hành trình trọn vẹn của một buổi đánh cá. Họ cùng ra đi, họ cùng lên thuyền và dĩ nhiên họ cùng thả lưới, và họ cùng thất bại, không bắt được gì cả. Trạng ngữ chỉ thời gian “trong đêm ấy” (ἐν ἐκείνῃ τῇ νυκτὶ), diễn tả một khoảng thời gian bình thường của một buổi đánh cá. Tuy nhiên, trạng ngữ này cũng mang một ý nghĩa biểu tượng khá rõ ràng. Hình ảnh “bóng đêm” gợi nhớ đến hình ảnh khi tông đồ Giuđa đi ra khỏi phòng Tiệc Ly (Ga 13, 30: Trời đã tối). Đó cũng là khoảng thời gian khi bà Maria Magdalene đi ra mộ (Ga 20, 1: Lúc trời còn tối)[6]. Đó là bóng đêm của sự thiếu vắng Chúa, thiếu vắng “ánh sáng thế gian”. Khi thiếu vắng “ánh sáng của thế gian” thì thế lực của bóng đêm hoạt động và sự thất bại là chuyện tất yếu. Một nhóm bảy Tông Đồ đã ra đi trên cùng một chiếc thuyền và thả lưới cùng nhau, thế nhưng trong đêm tối, thiếu ánh sáng của Đức Kitô, họ đã không bắt được gì cả. Chiếc thuyền thường là biểu tượng của Giáo Hội, và việc thả lưới thường được hiểu như là “rao giảng Tin Mừng”, bởi vì khi Đức Giêsu mời gọi ông Phêrô, Người đã nói rằng “hãy theo Ta, Ta sẽ biến các anh thành những ngư phủ của con người” (nghĩa là đánh bắt người ta) (Mt 4,v19; Mc 1,c17; Lc 5, 10: “những người bắt sống người ta”)

5.     Khi bình minh đến … Đức Giêsu đứng trên bờ biển: Đối lại với trạng ngữ chỉ thời gian “vào đêm hôm ấy” là trạng ngữ “khi bình minh đến” (ἐν ἐκείνῃ τῇ νυκτὶ). Khi bình minh đến cũng là lúc mặt trời xuất hiện – Đức Giêsu đứng trên bờ biển nhưng không ai nhận ra Người. Dường như họ vẫn chưa quen với Đấng Phục Sinh. Tương tự như hai môn đệ trên đường Emmaus, chỉ sau khi Người bẻ bánh thì họ mới nhận ra Người[7]. Các môn đệ trở về sau một đêm đánh bắt thất bại và đang ở gần bờ nên họ có thể thấy và nghe tiếng nói của Đức Giêsu cách rõ rang[8].

6.      “Này các cậu bé” (παιδία): Cũng như câu chuyện về hai môn đệ trên đường về Emmaus (Lc 24,13-35), Đức Giêsu mở lời hỏi thăm nhóm các môn đệ, những người đang trở về cuộc sống đời thường. Người quan tâm đến chính sự quan tâm của các ông (cái ăn): “Các cậu không có gì ăn sao”. Danh từ này gồm một động từ “ăn” và một giới từ “về phía” (προσφάγιον) (πρός + φαγεῖν), diễn tả một món ăn kèm với bành mì. Trong bối cảnh này, có thể hiểu là “không có cá hả các cậu”, vì cá thường ăn kèm với bánh mì và họ đã cố gắng đánh cá. Điều đặc biệt trong câu nói của Đức Giêsu là cách mà Người gọi họ “này các cậu bé” (παιδία). Đây là cách người ta dùng để gọi một đứa bé, nhỏ tuổi, chưa trưởng thành (Mt 18,3.4; 19,13.14; Mc 10,13.14; Lc 11, 7; 18, 16). Đây là danh xưng mà tác giả Mátthêu và Luca dùng để gọi Đức Giêsu lúc mới sinh (Mt 2,11.132.20.21; Lc 2,27.40). Cách Đức Giêsu gọi các môn đệ hết sức đặc biệt. Cách gọi này không tìm thấy nơi nào khác trong Tin Mừng thứ tư. Tuy nhiên, nó lại được tác giả thư thứ nhất của Gioan dùng khá nhiều, để biểu lộ tương quan cha-con giữa ông với các thành viên trẻ của cộng đoàn (1 Ga 2,14.18; 3, 7). Đó có thể là cách gọi thân thương của Thầy Giêsu dành cho học trò của mình; hoặc là cách Thiên Chúa gọi những người con của mình. Nó cũng có thể diễn tả sự non nớt về niềm tin của các môn đệ vào Đấng Phục Sinh, sự non nớt của những người đang đi trong đêm tối của đức tin.

7.     “Quăng lưới bên phải mạn thuyền, các con sẽ tìm thấy”: Chỉ dẫn của Đức Giêsu được các môn đệ ngoan ngoãn làm theo như những chú bé. Ông Phêrô không có bất cứ một phản ứng nào như ông đã từng làm trong trình thuật của tác giả Luca: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì, nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5, 5). Sự trái ngược đã xảy ra. “Trong đêm ấy” (thời gian thuận tiện để đánh cá), họ đã không bắt được gì, nhưng vào lúc bình minh (thời gian không thuận tiện để thả lưới), họ lại không thể kéo lên nổi vì quá nhiều cá. Lời của Đức Giêsu chính là sự khác biệt.

8.     “Người môn đệ Đức Giêsu yêu”: Như thường lệ của Tin Mừng thứ tư, “người môn đệ Đức Giêsu yêu” là người nhận ra Đức Giêsu trước tiên. Đây là nhân vật độc quyền của Tin Mừng thứ tư. Các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều không đề cập đến nhân vật này. Cho đến cuối cùng, tác giả Tin Mừng thứ tư vẫn không bật mí tên của nhân vật này. Ông có thể là một trong những môn đệ vô danh được nhắc đến trong Tin Mừng thứ tư (Ga 1, 35; 18,15.16). Trong bối cảnh này, có bốn môn đệ vô danh được nói đến: “Hai người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác của Người” (Ga 21, 2)[9]. Sự trổi vượt của người môn đệ đặc biệt này là điều không bàn cãi. Ông là người đã “nằm tựa vào lòng Đức Giêsu” trong Bữa Tiệc Ly (Ga 13, 23); Ông đã chạy nhanh hơn ông Phêrô và đến ngôi mộ trống trước; Ông “đã thấy và đã tin” (Ga 20,1-10). Trong trình thuật này, ông đã nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh và đã nói cùng ông Phêrô: “Đó chính là Chúa” (ὁ κύριός ἐστιν). Kiến thức này ngược lại với kiến thức lúc đầu các ông thấy Đức Giêsu đứng trên bờ biển: “Họ không biết đó là Đức Giêsu”. “Người môn đệ Đức Giêsu yêu” với sự nhạy cảm vốn có, cùng với mẻ cá lạ lùng, đã nhận ra Đức Giêsu. Sau khi lên bờ, “không ai trong các môn đệ dám hỏi ông là ai vì họ biết đó là Chúa” (Ga 21, 12).

9.     Mặc áo choàng vào … nhảy xuống biển … những môn đệ khác cũng đi vào bằng thuyền: Cũng như lúc các môn đệ theo ông

zalo
zalo