Bài 117 : Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu theo Thánh Luca

TGPSG --- Phụng vụ Tuần Thánh cho chúng ta cơ hội lắng nghe bốn trình thuật về Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu : Chúa Nhật Lễ Lá năm A theo Tin Mừng Mátthêu, năm B theo Tin Mừng Máccô, năm C theo Tin Mừng Luca và thứ Sáu Tuần Thánh theo Tin Mừng Gioan. Bốn góc nhìn tường thuật khác nhau của bốn Thánh Sử đưa đến một trình thuật độc đáo trọn vẹn về Cuộc Thương Khó. Sự khác biệt giữa bốn bản văn này đôi khi chúng ta ít quan tâm. Vì vậy, hôm nay, xin được trình bày nét độc đáo trong Tin Mừng Luca.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu thường ở lại trong ký ức của người Kitô hữu mỗi khi đi Đàng Thánh Giá, hoặc từ năm 2004, sau khi xem bộ phim Cuộc Thương Khó Đức Kitô của đạo diễn Mel Gibson. Dĩ nhiên, Mel Gibson không thể nào trình bày Đức Giêsu như các tác giả Tin Mừng. Niềm đam mê nghệ thuật hoàn toàn khác với kinh nghiệm lòng tin (mặc dù các sự kiện trong phim dựa vào nội dung Tin Mừng). Nếu Mel Gibson dàn dựng cuốn phim để lên án mọi thứ bạo lực từ suy nghĩ, lời nói tới hành vi của con người, thì thánh Luca là một trong bốn Thánh Sử trình bày Cuộc Thương Khó với mong muốn độc giả mọi thời vượt lên trên mọi cảm xúc con người trước một bi kịch lịch sử của nhân loại, để sống niềm xác tín mạnh mẻ về Tình yêu Xót thương của Chúa dành cho nhân loại.
Tuy giống các Tin Mừng khác, nhưng thánh Luca đề cập nhiều hơn đến những chuyển động của Đức Giêsu sau khi đi ra Núi Ôliu (22, 39) : bị bắt, bị đưa đến nhà thượng tế Caipha (22, 54), bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng Do Thái (22, 66), đối mặt với Philatô (23, 1), trình diện vua Hêrôđê (23, 7-8), bị vua trả về dinh Philatô (23, 11) trước khi lên "Núi Sọ" (23, 33) chịu đóng đinh.
Và có những chi tiết trong Cuộc Thương Khó mà chỉ có thánh Luca mới kể lại :
- Diễn từ sau Bữa Tiệc Ly nhắc nhở các môn đệ cung cách sống phục vụ (x. Lc 22, 24-38)
- Một thiên thần an ủi Đức Giêsu trong Cuộc Thương Khó (x. Lc 22, 43).
- Mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất (x. Lc 22, 44)
- Đức Giêsu chữa lành tai bị đứt của anh đầy tớ vị thượng tế (x. Lc 22, 51)
- Ba lần Philatô tuyên bố Đức Giêsu vô tội (Lc x. 23,4.14.22)
- Đức Giêsu trước mặt vua Hêrôđê (x. Lc 23, 8-12)
- Đức Giêsu đối thoại với các phụ nữ thành Giêrusalem (x. Lc 23, 27-32)
- Ba lời của Đức Giêsu trên thập giá :
Lời cầu xin Chúa Cha : “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34)
Ngỏ lời với tên gian phi : “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43)
- Lời cuối cùng với Chúa Cha : “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46)
Đám đông đấm ngực ăn năn thống hối sau khi Đức Giêsu chết (x. Lc 23, 48)
Các phụ nữ chuẩn bị dầu và thuốc thơm sau khi Đức Giêsu được mai táng trong mồ (x. Lc 23, 56)
Bám sát mạch truyện của Máccô và Mátthêu, nhưng Luca kể lại Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu theo cách thức riêng, đó là nghe truyền đạt, cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, tuần tự viết ra (x. Lc1,1-3). Cuộc Thương Khó bắt đầu bằng một âm mưu chống lại Đức Giêsu. Trình thuật như sau :
Tại Giêrusalem, các thượng tế, kinh sư và kỳ mục không thể làm gì được trước một Đức Giêsu vô tội, nhưng vẫn quyết tâm kết án, âm mưu giết Đức Giêsu vào dịp lễ Vượt Qua là một trong những ngày lễ lớn nhất của Do Thái giáo. Vào thời điểm đó, số người hành hương đến Giêsusalem có thể lên đến hàng ngàn, nên nhà cầm quyền, cả tôn giáo lẫn chính trị, đều rất lo ngại có nguy cơ nổi loạn. Vì vậy, sự kiện nộp Đức Giêsu phải diễn ra ở nơi ‘không có đám đông’. Luca cũng đề cập đến Xatan (Σατανᾶς, kẻ thù), một hình tượng gắn liền với sự thống trị, sức mạnh hủy diệt và sự gian tà độc ác. Chi tiết này cho phép hiểu Cuộc Thương Khó bắt đầu như một cuộc chiến giữa Đức Giêsu và sự dữ, mà ông Giuđa tự biến mình thành đồng phạm của Xatan (22,1-3).
Khi “đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giêsu sai ông Phêrô với ông Gioan đi và dặn : “Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua” (22,7-8). Chỉ có Tin Mừng Luca nêu rõ tên Phêrô và Gioan khi Đức Giêsu sai các ông đi chuẩn bị lễ Vượt Qua. Họ là hai trong các môn đệ đầu tiên và thân tín của Đức Giêsu. Đức Giêsu dặn dò hai ông khi vào thành, sẽ gặp một người mang vò nước ra đón, đưa về nhà, rồi chủ nhà sẽ chỉ cho một căn phòng lớn ở trên lầu, và hãy chuẩn bị bữa ăn ở đó. Hai ông ra đi và thấy mọi sự đều như Đức Giê-su đã nói (22,7-13). Theo Luca, bằng niềm tin và vâng phục Lời, chính hai ông sẽ là những người lãnh đạo tương lai của Giáo hội, được sai đi như những người cử hành lễ Vượt Qua của Đức Giêsu.
“Khi giờ đã đến, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ”. Không như các Tin Mừng khác, Luca diễn tả bữa ăn này như một bản di chúc truyền đạt những lời báo trước tương lai của Giáo Hội thừa kế Đức Giêsu. Có thể nói Luca đã trình bày một bữa tiệc Phục sinh, vì Luca đề cập đến hai chén rượu chứ không chỉ một chén như trong Máccô hay Mátthêu. Trong truyền thống Do Thái giáo, bữa ăn Seder – bữa tối lễ Vượt Qua, bắt đầu bằng chén rượu chúc tụng đầu tiên, và sẽ kết thúc bằng chén thứ tư với thánh ca Hallel, là thánh ca ngợi khen. Dù Luca không lặp lại chính xác nghi thức bữa ăn Seder, nhưng đã gợi lên vài chi tiết để liên kết ơn Thiên Chúa cứu thoát Israel ra khỏi Ai Cập với ơn giải thoát mới do Đức Giêsu tự hiến tế trên thập giá để lập nên Giao ước mới, khai mở triều đại mới (x. 22,14-20).
Sau đó, Đức Giêsu cho các môn đệ biết : “Này, bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy… Các Tông Đồ bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy. Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất”. Luca quả đã tinh tế cho độc giả biết một thực tại đau lòng : trong khi Thầy Giêsu báo trước cái chết, thì các trò, những môn đệ đã cùng chia sẻ bữa ăn với Thầy, vẫn cứ mải mê ‘cãi nhau sôi nổi’ về vị trí lớn nhỏ trong Nhóm. Theo Luca, Đức Giêsu biết ai sẽ phản bội nhưng không nêu tên. Sự im lặng này tất nhiên là một cách để không trao nộp kẻ có tội cho các Tông đồ, nhờ đó, ông Giuđa vẫn có được một không gian tự do để suy nghĩ và hành động. Các Tông đồ thắc mắc ai sẽ là người phản bội, và dường như mọi người đều muốn khoe khoang về lòng trung thành của mình : ai là người vĩ đại nhất, là người lớn nhất, khiến Đức Giêsu phải lên tiếng ‘ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ’. Có thể nói : sự phản bội của một người lại liên quan đến tham vọng của tất cả mọi người trong Nhóm Mười Hai. Luca đặt tình tiết này vào câu chuyện như để nhấn mạnh đặc tính khiêm nhường cần phải có trong Giáo Hội Chúa Kitô. Giáo Hội sẽ không được phép dựa vào các tiêu chuẩn thế gian để thống trị và biểu dương quyền lực. Và giống như Đức Giêsu ‘sống giữa anh em như một người phục vụ’ thì các môn đệ, Tông đồ hay chúng ta ngày nay cũng được mời gọi sống phục vụ nhau như thế.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu chính là thách đố cho các môn đệ khi muốn bước theo Thầy vào Nước Thiên Chúa. Hình ảnh Phêrô đại diện cho tất cả các môn đệ khi đứng trước thách thức của Xatan : mỗi người sẽ phải lựa chọn đào tẩu hay trung thành khi đối mặt với đau khổ và cái chết. Luca cho biết Đức Giêsu vẫn tin tưởng Phêrô dù ông chối Thầy, và qua kinh nghiệm vấp ngã của ông, Người yêu cầu ông củng cố đức tin cho anh em mình trong mọi thử thách với trọn vẹn trách nhiệm đối với anh em, đối với đàn chiên Chúa.
Đức Giêsu nói tiếp : “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không ?” Các ông đáp : “Thưa không.” Người bảo các ông : “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai có bao bị cũng vậy ; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. Vì Thầy bảo cho anh em hay : cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép : Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất”. Các ông nói : “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây”. Người bảo họ : “Đủ rồi !” (22,35-38). Những lời này đáng ngạc nhiên vì Đức Giêsu bảo các môn đệ chuẩn bị túi tiền, bao bị, và đi mua gươm. Xem ra trái ngược với mọi điều Người dạy bảo trước đó. Vậy, người tôi tớ Giêsu chịu oan khiên, ‘bị liệt vào hàng phạm pháp’ (anomos, ἄνομος) sẽ dùng bạo lực đáp trả bạo lực chăng ? Có thể hiểu rằng : theo Luca, việc bán áo để mua lấy thanh gươm phản ánh thời điểm các Tông đồ buộc phải trang bị đức tin, cậy, mến trước những cuộc bách hại dữ dội, phải đối mặt với sự dữ khi làm chứng cho Đức Giêsu. Nói cách khác, không gì ngăn cản bạo lực xảy ra với các ngài như đã xảy ra với Đức Giêsu, nên các ngài sẽ phải chiến đấu với thanh gươm thần thiêng là sức mạnh của Chúa, là lòng tin mãnh liệt vào Chúa.
Sau đó, Đức Giêsu ra núi Ôliu cùng với các môn đệ, nhưng Luca không nói rõ là vườn Ghếtsêmani, cũng không kể tên Phêrô, Giacôbê và Gioan (như trong Mt 26, 36 ; Mc 14, 32). Đức Giêsu ở một mình, tách biệt “một quãng, chừng bằng ném một hòn đá” để cầu nguyện, và nhắc các môn đệ ‘hãy cầu nguyện’ để khỏi sa vào cám dỗ (peirasmos, πειρασμός) được hiểu là chối bỏ Thầy. Dù lòng đang ‘xao xuyến bồi hồi’, Người quỳ gối cầu xin “đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (22, 42). Thánh Luca đã khẳng định mối liên kết thần thiêng giữa Chúa Con và Chúa Cha trong sứ mạng cứu độ loài người. Vì vậy, trong thân phận xác phàm, khi nỗi đau khiến mồ hôi Đức Giêsu nhỏ xuống như những giọt máu, thì Luca liền nói đến sự hiện diện của thiên sứ đến tăng thêm sức mạnh cho Người (22, 43). Sau khi cầu nguyện, Đức Giêsu thấy các môn đồ ‘đang ngủ vì buồn phiền’ (22, 45), các ông vẫn chưa nắm bắt được bi kịch sắp xảy ra, nên Đức Giêsu lên tiếng hỏi : ‘Tại sao lại ngủ ? Dậy mà cầu nguyện’. Có vị Thầy nào kiên nhẫn hơn Đức Giêsu chăng ?
Và “Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai”. Giờ đây Người phải đối mặt với ‘một đám đông’ thù nghịch, do Giuđa dẫn đầu. Tư thế này trái ngược với hình ảnh người môn đệ, là người phải đi theo sau, đứng ở vị trí cuối cùng và trở thành người phục vụ anh em mình. Và nụ hôn của Giuđa thay vì tượng trưng cho sự tôn kính đối với thầy, lại trở thành dấu hiệu của phản bội. Đối diện với Giuđa và đám đông, các môn đệ cố gắng bảo vệ Thầy Giêsu, chờ lệnh Thầy để ra tay bằng gươm giáo. Luca không nêu rõ danh tính người đã chủ động cắt đứt tai phải của người đầy tớ vị thượng tế, nhưng cho biết Đức Giêsu từ chối sử dụng vũ lực. Đức Giêsu biểu lộ uy quyền trước hết qua việc chữa lành người đầy tớ, dành tình thương cho kẻ thù, đồng thời cho đám đông bạo tàn thấy họ đang sống dưới ‘quyền lực tối tăm’ (22, 53).
Đức Giêsu bị dẫn từ Núi Ôliu đến nhà vị thượng tế để chịu thẩm vấn. Tại đây, Phêrô chối Thầy ba lần, và Luca là Thánh Sử duy nhất đề cập đến cái nhìn của Đức Giêsu với Phêrô. Đó không phải là cái nhìn khiển trách buộc tội, cũng không phải là cái nhìn thương xót tha thứ, nhưng để cho Phêrô nhận ra Thầy là Ngôn sứ, là Thầy và là Chúa của ông. Bên cạnh đó, Luca là người duy nhất đề cập đến việc Đức Giêsu bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Toàn bộ cuộc thẩm vấn của Thượng Hội Đồng Do Thái được thu gọn lại trong hai câu hỏi liên quan đến danh tính Đức Giêsu : “Ông có phải là Đấng Mêsia ?” (22, 67) và “Ông là Con Thiên Chúa sao ?” (22, 70). Bị đóng khung bởi hai câu hỏi này, Đức Giêsu khẳng định “Từ nay Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Danh tính đã được tỏ bày rõ ràng. Toàn thể hội đồng liền điệu Đức Giêsu đến Philatô nhưng ông này tuyên bố ba lần rằng Đức Giêsu vô tội (23,4.14.22), dù đã đẩy vụ xét xử này cho cả vua Hêrôđê (23,8-12). Sau cùng, trước đám đông la hét dữ dội, Philatô thả Baraba rồi trao nộp Đức Giêsu theo ý họ muốn. Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người. Trên đường thập giá, “dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói : “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (23,27-29). Đây là lời cuối cùng Đức Giêsu nói với Giêrusalem ngang qua những người phụ nữ trung thành, đây không phải là lời trách móc nhưng là lời giúp cho giới lãnh đạo Do Thái giáo nhận thức sự cứng lòng của họ.
Khi đến nơi gọi là Cái Sọ, Đức Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Bước vào cơn đau đớn cuối cùng (ἀγωνία), thánh Luca cho biết Đức Giêsu không kêu van “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” như trong Tin Mừng Máccô 15,34-35, nhưng ngược lại, thánh Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong lời khẩn nài của Đức Giêsu “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ” và cuối cùng “Lạy Cha, con phó thác linh hồn con trong tay Cha”. Trong suốt Cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chứng tỏ lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa đối với tội nhân, dù Đức Giêsu bị loài người kết tội. Đức Giêsu không rên xiết kêu cầu cho thân phận mình mà cho những người đã hành quyết mình. Luca còn nhấn mạnh sự thiếu hiểu biết của bao nhiêu người đã đẩy Đức Giêsu đến thập giá, lại còn chế giễu cười nhạo “đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn !” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói : “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi !” Cuối cùng, “phía trên đầu Người, có bản án viết : “Đây là vua người Do Thái” (23,35-38). Trong mắt các nhà lãnh đạo, các thượng tế và những người danh giá của Giêrusalem, Đức Giêsu thành Nazaret không thể là Đấng Mêsia mà người ta mong đợi. Bị kết án dưới danh nghĩa là “vua dân Do Thái”, Vua Giêsu là nạn nhân trong phiên tòa bất công tàn nhẫn. Người là một vị vua không vương miện, không lãnh thổ, một vị vua không gươm giáo, không binh lính. Cả Philatô lẫn Hêrôđê đều không công nhận Đức Giêsu là vua dân Do Thái, đã tuyên bố Đức Giêsu vô tội, nhưng vẫn kết án vì lý do này. Đức Giêsu được chào đón tại Giêrsa-lem như một vị vua (19,35-40), nhưng không ai hiểu được sự thật về một vị vua chỉ muốn thiết lập công lý và bênh đỡ quyền lợi cho kẻ nghèo hèn, yếu thế, bị loại trừ. Chính trong sự im lặng chịu nhục nhằn mà Đức Giêsu tỏ mình là Con Thiên Chúa và là Đấng Mêsia đích thực. Chính từ thập giá Đức Giêsu, triều đại Công lý, triều đại Nước Thiên Chúa đã được thiết lập.
Trong Cuộc Thương Khó, thánh Luca đã khắc họa dung mạo của Đức Giêsu : Đấng nhân từ chữa lành tai bị đứt của một đày tớ vị thượng tế (22, 51), Đấng thấu hiểu tâm can Phêrô khi quay nhìn ông sau ba lần chối Thầy (22, 61), Đấng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình (23, 34) và Đấng hứa ban thiên đàng cho kẻ gian phi (23, 43). Hơn thế nữa, điều mà Luca nhấn mạnh nhất chính là dung mạo của “Đức Giêsu công chính”. Thánh Luca không lặp lại lời tuyên xưng đức tin của viên đại đội trưởng trong Mác-cô "Quả thật đây là Con Thiên Chúa", ấy là để nhấn mạnh “Người này đích thực là người công chính” (23, 47).
Trình bày Đức Giêsu ‘công chính’ bị bách hại là điều cơ bản theo Luca. Bên cạnh đó, Luca còn vén mở một Đức Giêsu thương xót yêu thương thì không hề chấp nhất tội lỗi. Việc các môn đệ ngủ trong lúc Đức Giêsu u sầu ở vườn ôliu đã được Luca bênh vực là các ông "đang ngủ vì buồn phiền" (22, 45) và khi Phêrô chối Thầy, Luca không giống Máccô hay Mátthêu kể lại Phêrô “thốt lời độc địa và thề thốt” (Mc 14, 71 ; Mt 27, 74) nhưng Luca là tác giả Tin Mừng duy nhất thuật lại rằng Đức Giêsu “đã cầu nguyện cho Phêrô khỏi mất lòng tin” (x. Lc 22, 32). Luca khẳng định, lòng thương xót của Thiên Chúa không thuộc phạm trù hay quan niệm công lý của thế gian. Cho dù thi hành lẽ công minh thì sẽ không thương hại, nhưng với Luca, hai thực tại này là một : công lý và lòng thương xót hòa quyện nhau. Vẻ đẹp trong Cuộc Thương Khó của thánh Luca chính là sự hòa hợp ấy : trực diện sự dữ bất công tàn bạo nơi thập giá cũng là đón nhận Ơn Tha Thứ vô điều kiện của Thiên Chúa, nhờ bởi hy lễ đền tội của người tôi trung Giêsu Kitô. “Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực”, nhận thức tội và sám hối (23, 47-48). Bằng cách chiêm ngưỡng và quan sát cảnh tượng thập giá, viên đại đội trưởng và đám đông hung dữ dường như đã thấu hiểu sự vô tội của Đức Giêsu và hiểu thấu tình yêu Thiên Chúa.
Tin Mừng Luca kể lại Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu không phải như một sự kiện của quá khứ, nhưng mỗi độc giả của Tin Mừng Luca qua mọi thời được mời gọi quyết liệt bước theo “con đường thập giá” của Đức Giêsu, với lòng can đảm và tín thác trọn vẹn nơi một Tình yêu bao dung.
Lm Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP - Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ
Nguồn: tgpsaigon.com